Đẩy mạnh chuyển đổi số nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong giai đoạn hậu đại dịch COVID-19

01/09/2021

Người tạo 0

Chuyên mục:

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra sâu rộng trên toàn thế giới, chuyển đổi số được xem như chìa khóa thành công cho các doanh nghiệp. Bài viết này của Vietnam Report sẽ phân tích những cơ hội và thách thức của doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số nhằm đạt được vị thế trên thị trường trong giai đoạn hậu đại dịch COVID-19.

Nhu cầu chuyển đổi số trong doanh nghiệp hiện nay

Dưới áp lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nhu cầu về công nghệ kỹ thuật số trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ ngày càng phát triển. Quá trình chuyển đổi số tại doanh nghiệp diễn ra trải rộng trên các mảng hoạt động như: tài chính – bán hàng – vận hành – công nghệ - quản trị nguồn nhân lực – tiếp thị. Quá trình chuyển đổi số này vừa là “áp lực” nhưng đồng thời cũng là “cơ hội” để các doanh nghiệp tại Việt Nam có thể “bứt phá” trong bối cảnh môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.

Nhu cầu chuyển đổi số trên thế giới

Quá trình phục hồi kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp cũng đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trên toàn thế giới. Theo số liệu của tổ chức Gartner, thị trường CNTT đã chứng kiến dòng chi tiêu gia tăng mạnh mẽ trong quý IV/2020 ở hầu hết các khu vực. Trong đó, số liệu thống kê đã cho thấy tổng chi tiêu cho CNTT toàn cầu trong năm 2020 ước tính đạt mức kỷ lục với gần 3.700 tỷ USD.

Cũng theo nghiên cứu từ năm 2017 của Microsoft tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tác động chuyển đổi số mang lại cho GDP năm 2017 đạt khoảng 6%. Con số này được dự đoán sẽ tăng lên mức 25% trong năm 2019 và 60% vào năm 2021.  Chuyển đổi số cũng làm tăng năng suất lao động. Những con số thống kê cho thấy, trong năm 2017 tác động của chuyển đổi số giúp làm tăng năng suất lao động thêm 15% và tỷ lệ này sẽ tăng lên 21% vào năm 2021. Đáng chú ý khi cùng với quá trình chuyển đổi số, 85% các công việc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ bị biến đổi trong vòng 3 năm tiếp theo. 

Nhu cầu chuyển đổi số tại Việt Nam

Trong bối cảnh hậu đại dịch COVID-19, nhu cầu chuyển đổi số trong doanh nghiệp đã được định hình một cách tổng thể và toàn diện về cả cách thức thực hiện, cũng như cách thức triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên công nghệ số. Chuyển đổi số tại Việt Nam đang được xem như nhu cầu tất yếu trong lãnh đạo, quản trị điều hành ở cả cấp độ vĩ mô như các hoạt động kinh tế - xã hội của một địa phương và ở cấp độ vi mô như hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.

Nhu cầu chuyển đổi số của các doanh nghiệp gia tăng cũng được các cơ quan chức năng dự báo trong chiến lược phát triển. Cụ thể, theo Kế hoạch Tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021-2025, đến năm 2025, có tới 55% dân số tham gia mua sắm trực tuyến, với giá trị mua hàng hóa và dịch vụ trực tuyến đạt trung bình 600 USD/người/năm. Doanh số thương mại điện tử của mô hình thương mại điện tử B2C tăng 25%/năm, đạt 35 tỷ USD, chiếm 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước.

Cơ hội và thách thức chuyển đổi số hậu COVID-19

Cơ hội

Thứ nhất, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý I/2021 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, dự báo tăng trưởng 6,5% -7,1% GDP cho năm 2021. Và, Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trên thế giới đã xây dựng được một chương trình chuyên đề về chuyển đổi số quốc gia với 3 trụ cột chính là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, và đã được các cơ quan chức năng phê duyệt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Thứ hai, tầng lớp trung lưu tại Việt Nam đang phát triển với tốc độ nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, mức độ tiếp cận kỹ thuật số và phủ sóng băng thông rộng ở mức độ cao với 143,3 triệu thuê bao di động, 72% dân số sử dụng điện thoại thông minh có kết nối với hệ thống 3G, 4G hoặc 5G, 66% dân số sử dụng Internet và tần suất mua sắm trực tuyến của thị trường cũng thuận lợi với mức tăng 14% đối với tất cả các danh mục hàng hóa và dịch vụ. Đây là yếu tố thuận lợi cho phép các ngành như tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, vốn là những ngành đang tích cực chuyển đổi số, có thể phát triển nhanh chóng.

Thứ ba, các ưu đãi thuế hấp dẫn dành cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ mới tham gia vào thị trường và chuyên gia CNTT-TT đã được cụ thể hóa và thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài mạnh mẽ. Thực tế, tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2021 đạt 10,13 tỷ USD, tăng khá mạnh 18,5% so với năm 2020; trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 5 tỷ USD (chiếm 49,6%). Điều này tạo cơ hội mở rộng các lựa chọn tài chính mới về cấp vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và tăng cường sáng tạo, sản xuất CNTT-TT nhiều hơn cho Việt Nam, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao và hệ thống thực tiễn tốt nhờ hệ thống chuỗi khối và nguồn gốc sản phẩm được đảm bảo.

Thứ tư, chương trình chuyển đổi số quốc gia sẽ tạo nên một môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng và bình đẳng đối với cả các doanh nghiệp mà ở đó, bất kỳ tổ chức nào đủ nhanh nhạy cũng có thể tìm thấy "bản sắc thương hiệu" cho riêng mình lớn. Lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về những tổ chức doanh nghiệp hiểu rõ nhu cầu khách hàng của mình, luôn chủ động linh hoạt trong đổi mới, nhạy bén trong các quy trình thử nghiệm và nhanh chóng ra mắt các sản phẩm và dịch vụ mới. Thực tế nhiều doanh nghiệp truyền thống cũng đã tận dụng được các cơ hội từ quá trình chuyển đổi này.

Thứ năm, nền tảng thị trường đào tạo năng động, đội ngũ nhân lực về các mảng công nghệ hiện tại đang được gia tăng nhanh chóng với sự vào cuộc của các cơ sở đào tạo về CNTT của Việt Nam. Hơn nữa, việc xây dựng các chương trình tự học qua các nền tảng số tạo cơ hội đào tạo lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác từ các hộ gia đình chưa tham gia vào thị trường lao động ở nhiều khu vực và vùng nông thôn. Từ đó, sẽ đảm bảo cung cấp một nguồn lực lớn về các nhân công công nghệ và nghiên cứu dữ liệu chất lượng cao phục vụ quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế và doanh nghiệp có thể giải quyết một phần bài toán về nhu cầu nguồn lao động chất lượng cao.

Thứ sáu, nỗ lực hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp nhằm thiết lập mạng lưới đổi mới sáng tạo quốc gia và tổ chức hợp tác khoa học dữ liệu tạo cơ hội đẩy nhanh quá trình cải cách chính phủ điện tử, tăng cường khả năng tham gia vào kinh tế nền tảng của các thị trường toàn cầu và giúp các doanh nghiệp có bước nhảy vọt về công nghệ. Bên cạnh đó, tiềm năng từ dữ liệu mở sẽ thúc đẩy quá trình phát triển các ứng dụng kỹ thuật số toàn xã hội. Đặc biệt, 12 sáng kiến, ưu tiên của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN 2020 đã được thông qua, trong đó tập trung vào các lĩnh vực như thương mại điện tử, thương mại hàng hóa, năng lượng, công nghệ thông tin, nông nghiệp, phát triển bền vững, tài chính, thống kê, đổi mới sáng tạo…

Thách thức

Thứ nhất, Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi số quyết liệt do đó việc bảo vệ dữ liệu, đảm bảo an toàn thông tin phải là yếu tố then chốt. Nếu không được quản lý một cách đúng đắn, dữ liệu kinh doanh bị đánh cắp sẽ trở thành “ngòi nổ” đẩy các doanh nghiệp lún sâu vào khủng hoảng và đánh mất lòng tin của khách hàng. Nguy cơ này bắt buộc các doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống bảo mật, đảm bảo hoạt động liên tục, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Việc đầu tư cho bảo mật dữ liệu cũng tiêu tốn nhiều nguồn lực của doanh nghiệp.

Thứ hai, xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ cao với nhiều thủ đoạn mới và ngày càng tinh vi. Theo báo cáo về tin nhắn rác và tấn công lừa đảo năm 2020 của Kapesky, những chiến dịch tấn công lừa đảo vẫn tiếp tục nhắm vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) tại khu vực Đông Nam Á trong khi các doanh nghiệp này vẫn đang gánh chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch. Vì vậy cơ sở hạ tầng cũng đòi hỏi hạ tầng số đồng bộ, tập trung, chuẩn kỹ thuật kết nối, chuẩn dữ liệu, cơ sở dữ liệu dùng chung, hạ tầng an ninh, bảo mật. Những hạn chế về cơ sở hạ tầng, liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng số đồng bộ, tập trung, chuẩn kỹ thuật kết nối, chuẩn dữ liệu, cơ sở dữ liệu dùng chung, hạ tầng an ninh, bảo mật.

Thứ ba, các chính sách khuôn khổ pháp lý chưa được hoàn chỉnh và còn nhiều “kẽ hở” trong việc giải quyết các tranh chấp nên đang hạn chế nhiều doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số mà cụ thể là những vướng mắc trong luật giao dịch điện tử, chứng thực chữ ký điện tử, chữ ký số, hợp đồng điện tử. Quy định phân xử trách nhiệm của các bên khi xảy ra tranh chấp kinh tế vẫn còn chưa đầy đủ dẫn đến các tranh cãi giữa khách hành và doanh nghiệp khi xảy ra các sự kiện chiếm đoạt tài khoản, chiếm đoạt nguồn hàng hoặc các sự cố phát sinh. Sự dịch chuyển của quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam đang diễn ra chậm hơn kỳ vọng khi nhiều cơ quan, tổ chức đang trong giai đoạn đầu tiếp cận với xu hướng mới mẻ về mặt công nghệ.

Thứ tư, nhu cầu về nhân tài trong lĩnh vực công nghệ số ngày nay chưa được đáp ứng, kỹ năng người lao động lại chưa bắt kịp được với đà tăng trưởng mạnh của thị trường dẫn đến vấn đề cạnh tranh nhân sự khó có thể tránh khỏi. Dù là doanh nghiệp có đang hoạt động trên nền tảng công nghệ hay không thì khả năng truyền cảm hứng sẽ là điểm cộng để doanh nghiệp trở thành điểm chú ý của các nhân tài. Cơ sở vật chất hạ tầng không được quan tâm đầu tư và chính sách đãi ngộ không thỏa đáng sẽ khiến doanh nghiệp đối mặt với nguy cơ “chảy máu chất xám” công nghệ số.

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong giai đoạn hậu COVID-19

Năm 2020 được coi như năm chuyển mình của Việt Nam trong chuyển đổi số và đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập, đặc biệt là câu chuyện COVID-19 càng khiến thúc đẩy tiến trình này diễn ra nhanh hơn. Sau giai đoạn khởi động chuyển đổi số quốc gia, năm 2021 và cả giai đoạn 2021-2025 được giới chuyên gia nhận định là thời điểm “vàng” để tăng tốc với những hành động, giải pháp triển khai cụ thể đối với từng bộ, ngành, lĩnh vực và địa phương.

Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số hiệu quả và thành công, các cơ quan chức năng và cộng đồng doanh nghiệp nên:

Một là, hợp tác chặt chẽ trong các vấn đề:

  • Thống nhất mục tiêu chuyển đổi số phải hướng đến lợi ích của người dân, doanh nghiệp; từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của địa phương, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của các cơ quan chức năng cũng như cộng đồng doanh nghiệp;
  • Xây dựng các chuỗi công tác bao gồm: chương trình chuyển đổi số quốc gia, hệ sinh thái, thang đo lường khả năng chuyển đổi số. Đồng thời, huy động nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, qua đó đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số và chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực cụ thể;
  • Lưu ý điểm mấu chốt quyết định sự thành công của câu chuyện chuyển đổi số là giải pháp về nguồn nhân lực trình độ cao. Việc đào tạo lực lượng lao động, đặc biệt đội ngũ lao động trẻ hiện nay có nhiều thuận lợi do các tiến bộ xã hội nhưng cũng có nhiều thách thức từ các chi phí phát sinh từ quá trình đào tạo lại, tăng cường kỹ năng cho người lao động để lực lượng lao động đáp ứng được nhu cầu lao động trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với những thay đổi của thế giới do đại dịch COVID-19 tạo ra.

Hai là, làm tốt trách nhiệm mỗi bên; cụ thể:

  • Về phía các cơ quan chức năng: Nghiên cứu, ban hành và khẩn trương thực hiện chính sách kinh tế mới để “lôi kéo” doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đổi mới quy trình và công nghệ sản xuất trong điều kiện bình thường mới của nền kinh tế;
  • Về phía các doanh nghiệp nói chung: Tập trung vào nâng cao trải nghiệm khách hàng. Cụ thể, chú trọng hệ thống kênh phân phối, tiếp thị, chăm sóc khách hàng, chủ động về chuỗi cung ứng nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Thúc đẩy chuyển đổi số bằng cách nghiên cứu và xây dựng mô hình quản trị của doanh nghiệp đảm bảo độ linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thị trường và có tính liên kết với mô hình kinh doanh mới tạo nên sự xuyên suốt trong vận hành toàn diện doanh nghiệp;
  • Cuối cùng và vô cùng quan trọng, về phía các doanh nghiệp công nghệ lớn: Cần tập trung phát triển hạ tầng, nền tảng, tạo không gian để các doanh nghiệp SME hoạt động, kết nối kinh doanh, đổi mới sáng tạo. Đó là cách để hình thành các hệ sinh thái ứng dụng và dịch vụ đa dạng, bền vững với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Từ đó, thay đổi nhận thức của cộng đồng, tư duy và ý chí quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ viễn thông đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số tại địa phương.

 

Theo VNR500

  


Bình Luận (0)



Gửi bình luận

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *